Di tích Hiền lương - Bến Hải


Di tích Quốc gia đặc biệt Ðôi bờ Hiền Lương – Bến Hải

Khu di tích đôi bờ Hiền Lương
Ðôi bờ Hiền Lương – Bến Hải là tên gọi cho một cụm di tích ở hai bên bờ sông Bến Hải tại khu vực cầu Hiền Lương - nơi được coi là tâm điểm thể hiện cao nhất những vấn đề lịch sử về một thời kỳ gần 20 năm chia cắt đau thương của hai miền Nam - Bắc, và cũng là nơi chứng kiến cuộc đấu tranh bền bỉ, bi hùng của cả dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cụm di tích này nằm ở điểm giao nhau giữa đường Quốc lộ 1A và sông Bến Hải; phía Bắc thuộc thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh; phía Nam thuộc thôn Xuân Hòa, xã Trung Hải, huyện Do Linh; cách thị trấn Hồ Xá 7km về phía Nam và cách Thành phố Ðông Hà 22km về phía Bắc.
Bến Hải là một trong những con sông lớn của tỉnh Quảng Trị, nằm dọc trên vĩ tuyến 17 từ Tây sang Ðông trên bản đồ Việt Nam. Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève vào ngày 20/7/1954, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước. Theo Hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải chạy ngang qua Do Linh và Vĩnh Linh) làm đường ranh giới quân sự tạm thời. Miền Bắc do Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa quản lý. Miền Nam do quân đội liên hiệp Pháp quản lý. Lực lượng hai miền sẽ tập kết ở cầu Hiền Lương. Sau hai năm sẽ tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.
Giới tuyến quân sự tạm thời được quy định từ phía Ðông sang phía Tây: từ cửa sông Bến Hải (Cửa Tùng) và dòng sông đó đến làng Bồ Hồ Sừ, biên giới Việt - Lào. Ở đoạn giới tuyến quân sự tạm thời trùng với sông Bến Hải, mỗi bên sẽ chịu trách nhiệm đặt ở những địa điểm qua lại những dấu hiệu dễ thấy bằng hai thứ tiếng:“Giới tuyến quân sự tạm thời”-“Lingne de démarcation millitaire provisoire”
Ranh giới khu phi quân sự là những đường hạn định khu phi quân sự ở phía Bắc và phía Nam vĩ tuyến 17, mỗi bên xa (cách vĩ tuyến 17) 5km. Việc gìn giữ trật tự, an ninh, thực hiện quy chế khu phi quân sự (Demilitarized Zone-DMZ) do lực lượng công an và nhân viên hành chính đảm nhiệm. Ngoài lực lượng công an và nhân viên hành chính, nhân viên Ban Liên hiệp khu phi quân sự thì không một ai được ra vào khu phi quân sự. Trên giới tuyến quân tạm thời có 10 điểm nhân dân hai miền được phép qua lại, mỗi bên có một đồn công an (của ta), cảnh sát (của ngụy quyền miền Nam) làm nhiệm vụ kiểm soát.
Vĩ  tuyến 17, đường quy ước địa lý ấy bình thường như tất cả mọi vĩ tuyến khác trên trái đất, nhưng từ khi nó được quy định là giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt hai miền Nam - Bắc thì không những đã thu hút sự chú ý của quân và dân cả nước Việt Nam ta, và còn làm cho nhân dân cả thế giới đều biết đến. Ðể xóa được đường ranh giới tạm thời ấy, con người Quảng Trị và cả dân tộc Việt Nam đã phải đi qua cuộc trường chinh gần 20 năm với bao đau thương, mất mát, hy sinh nhưng vô cùng oanh liệt trong cuộc chiến tranh giải phóng chống lại đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.
Ðôi bờ Hiền Lương – Bến Hải từ trong cuộc đấu tranh thần thánh chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đã trở thành biểu tượng của nỗi đau chia cắt và rạng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh vì khát vọng thống nhất đất nước. Khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương – Bến Hải là di tích đã được Bộ VHTT xếp hạng quốc gia theo Quyết định số 235/VH-QÐ ngày 12 tháng 12 năm 1986 ; Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định Số 2383/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2013. 
Do đặc điểm lịch sử nên di tích này kéo dài trên một chiều dài gần 15km. Hệ thống này bao gồm nhiều địa điểm với nhiều hạng mục như : cầu, cột cờ, giàn loa phóng thanh, nhà liên hợp, đồn bốt, hầm hào, đường giao thông…và các địa điểm từng diễn ra những sự kiện lịch sử tiêu biểu ở hai bên bờ giới tuyến. Trong phạm vi của di tích đã được xếp hạng, cụm di tích Ðôi bờ cầu Hiền Lương chỉ tập trung phản ánh các di tích sau :
Là chiếc cầu bắc qua sông Bến Hải nối liền quốc lộ 1A ở km 735. Vào năm 1928, chính quyền phủ Vĩnh Linh huy động dân hai bờ để xây dựng một chiếc cầu đầu tiên. Cầu làm bằng cọc sắt, mặt lát ván gỗ, tải trọng chỉ đủ cho khách bộ hành. Năm 1931, chính quyền Pháp cho sửa chữa lại nhưng cũng chỉ dùng cho người đi bộ và các phương tiện giao thông nhẹ, xe cộ muốn qua sông phải đi bằng phà.
Năm 1950, Pháp cho xây một cây cầu mới bằng bê tông cốt thép, đủ tải trọng cho xe cơ giới vận tải qua cầu và tồn tại gần hai năm thì bị du kích ta đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn việc vận chuyển binh lính và các phương tiện chiến tranh của lính Pháp.
Tháng 5/1952, Pháp cho xây lại cầu Hiền Lương với chiều dài 178m, có 7 nhịp, trụ bằng bê tông cốt thép, thân cầu bằng thép, mặt cầu lát bằng ván gỗ thông. Ðây là cây cầu diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trong giai đoạn hai miền chia cắt. Cây cầu tồn tại được 15 năm, đến năm 1967 thì bị bom Mỹ đánh sập.
Trong những năm từ 1954 - 1967, tức là thời kỳ mà nhân dân hai miềm còn có thể qua lại dưới sự kiểm soát của lực lượng cảnh sát liên hợp thì cây cầu được chia làm hai nửa: một nửa phía Bắc do công an giới tuyến của miền Bắc quản lý, một nửa phía Nam do cảnh sát ngụy quyền miền Nam quản lý. Theo nhà văn Nguyễn Tuân trong bài bút ký “Cầu ma” thì: Cầu chia làm hai phần (mỗi bên có độ dài 89m) sơn hai màu khác nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ Nam 444 tấm.
Cầu Hiền Lương - biểu tượng trực tiếp của nỗi đau chia cắt Bắc – Nam và khát vọng thống nhất non sông. Trong suốt 18 năm chia cắt, chiếc cầu là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giằng co, bền bỉ, liên tục và không kém phần ác liệt về  chính trị, tư tưởng giữa hai bên. Cũng trong suốt thời gian đó, biết bao tấm gương anh dũng đã hy sinh để bảo vệ cầu, bảo vệ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Cầu Hiền Lương mãi mãi đi vào tiềm thức của nhân dân Việt Nam như một minh chứng hùng hồn cho nỗi đau chia cắt và cuộc đấu tranh vì khát vọng thống nhất đất nước.
Theo quy định của Hiệp định Genève, tất cả các đồn công an ở giới tuyến đều có cờ treo lên hàng ngày. Ðể giương cao lá cờ - biểu tượng chủ quyền, ý chí, sức mạnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 10/8/1954, cột cờ đầu tiên được dựng ở bờ Bắc, giữa sân nhà A và B đồn công an Hiền Lương. Cột cờ làm bằng gỗ, cao 12m, trên đỉnh treo lá cờ bằng vải sa tanh đỏ rộng 24m2. Cột cờ thứ hai cũng bằng gỗ cao 18m, lá cờ rộng 32 m2. Việc nâng chiều cao cột cờ và bề rộng lá cờ là một cuộc chạy đua liên tục giữa chính quyền hai phía. Ngay sau khi bờ Bắc dựng cột cờ bằng gỗ cao 18m thì ở bờ Nam, chính quyền Ngô Ðình Diệm cho dựng một trụ cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m. Trên đỉnh treo một lá cờ lớn, có hệ thống đèn nêông nhấp nháy đủ màu. Ngày 19/7/1957, Khu ủy Vĩnh Linh cho dựng cột cờ bằng thép ống cao 32m, trên đỉnh có gắn một ngôi sao bằng đồng có đường kính 1,2m, năm đỉnh ngôi sao gắn một chùm bóng điện (15 bóng) loại 500W, lá cờ rộng 108 m2. Chính quyền Sài Gòn lại tôn cột cờ ở bờ Nam lên 35m. Năm 1962, Chính phủ ta điều một đơn vị xây dựng chở vật liệu từ Hà Nội vào xây dựng một cột cờ cao 38,6m bằng thép ống. Cách đỉnh 10m có một cabin dùng để chiến sĩ ta thu cờ và treo cờ. Lá cờ lúc này có kích thước 9,6m x 4m = 134m2.
Ðể cho cột cờ - biểu tượng của dân tộc đứng vững dưới mưa bom bão đạn nhằm động viên cổ vũ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh sinh tử với Mỹ - ngụy, các chiến sĩ đồn công an Hiền Lương đã ngoan cường chiến đấu bảo vệ cờ. Cùng với nhân dân Vĩnh Linh, các chiến sĩ ta đã đào 18km đường hào, xây 48 ụ súng phòng không xung quanh khu vực cầu Hiền Lương; đặc biệt, biết bao tấm gương cảm động của nhân dân vùng giới tuyến đã không ngại gian khó, hy sinh để thực hiện những nghĩa cử cao đẹp cho lá cờ tổ quốc luôn tung bay như: mẹ Nguyễn Thị Diệm đã thức trắng bao đêm để vá cờ dưới làn mưa đạn trong hàng chục năm trời.
Theo quy định của Hiệp định Genève, dọc bờ giới tuyến có 4 đồn Liên hợp ở 4 địa điểm: Hiền Lương, Xuân Hòa, Cửa Tùng và Cát Sơn. Lực lượng bố trí ở mỗi đồn không quá 20 người, trang bị gồm có súng ngắn và tiểu liên bộ binh. Lực lượng công an, cảnh sát này làm nhiệm vụ giữ gìn quy chế vùng phi quân sự, kiểm soát người qua lại giới tuyến, kiểm soát lẫn nhau trong việc thực thi các điều khoản Hiệp định và được đặt dưới sự giám sát của tổ chức Quốc tế 76 (gồm đại diện Canada, Ấn Ðộ, Ba Lan).
Nhà Liên hợp (tức nhà A) được xây dựng kiên cố từ năm 1955. Kiến trúc theo kiểu nhà sàn 4 mái với bộ khung bằng thép, tường gạch, xi măng, nền lát bằng gỗ, mái lợp ngói, có hệ thống cửa kính, cửa chớp, kích thước nhà 12m x 6m. Vị trí nhà ở phía Ðông quốc lộ 1A, lệch 150 với tâm đường. Ðây là nơi giao ban, làm việc giữa cảnh sát và công an hai bờ, nơi tiếp xúc, giải quyết khiếu nại giữa lực lượng kiểm soát với tổ chức Quốc tế.
Ðồn công an giới tuyến (tức nhà B và C) là nơi lực lượng công an giới tuyến ăn ở, sinh hoạt. Hai nhà này hợp với nhà A tạo thành một khu nhà hình chữ U. Nhà B có diện tích 10 x 5m, làm bằng gỗ, lợp tranh, vách trát toóc xi dùng làm nơi sinh hoạt, hội họp nội bộ. Nhà C có diện tích 12m x 4m, kết cấu và vật liệu giống như nhà B dùng làm nhà ăn, kho hậu cần, quân nhu.
Từ đây, để bám trụ chiến đấu bảo vệ cờ, bảo vệ cầu, các chiến sĩ công an giới tuyến đã đào 2 hầm chữ A để ở. Hai hầm này tồn tại đến ngày 30/2/1973. Giữa năm 1973, ta cho dựng lại 2 ngôi nhà B và C làm nơi ở, làm việc cho các chiến sĩ công an. Sau ngày đất nước thống nhất, hai ngôi nhà này đã bị tháo dỡ để làm trường học và rạp hát.
Phía bờ Nam, ngụy quyền Sài Gòn cũng cho xây dựng một đồn cảnh sát cùng với một hệ thống đồn bốt với những lô cốt, tháp canh và chi chít hàng rào dây kẽm gai. Từ năm 1967, những công trình quân sự trong khu vực này hầu như đã bị phá hủy hoàn toàn.
Trong cuộc đấu tranh liên tục và bền bỉ giữa ta và địch ở giới tuyến thì truyền thanh đã góp phần rất quan trọng nhằm đáp ứng nhiệm vụ đấu tranh chính trị, giáo dục, tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân vững tin vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trên lĩnh vực này, sự đối đầu giữa hai bên diễn ra căng thẳng và rất quyết liệt trong đó có việc chạy đua về kỹ thuật âm thanh, về nội dung và hình thức tuyên truyền. Chính vì thế, một hệ thống loa phóng thanh ở bờ Bắc đã ra đời.
Hệ thống loa được bố trí thành 5 cụm (Bến đò tùng Luật - Tân Mỹ - Hiền Lương và 2 cụm ở Vĩnh Sơn), trên một chiều dài 1.500m, tập trung ở những tụ điểm đông dân cư, mỗi cụm gồm một trụ có gắn 40 loa công suất từ 25 đến 250W. Tổng công suất của 5 cụm cố định này hơn 7000W. Ngoài ra còn có một số loa bổ sung khi cần thiết, một loa lớn có công suất 500W (đường kính vành loa rộng đến 1,7m) đặt trên xe cơ động để đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền dọc bờ sông. Ðể cung cấp điện cho hệ thống loa có công suất lớn này, một đường dây cao thế 6KVA dài hơn 40 km đã được kéo từ Vĩnh Sơn đến Tùng Luật. Tất cả các giàn loa này được tăng âm bởi trạm cao tần đặt tại Liêm Công phường (Vĩnh Thành), cách cầu 2,5km về phía Bắc.
Có thể nói từ năm 1954 - 1965, hệ thống loa phát thanh ở bờ Bắc sông Bến Hải đã đóng góp một phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và địch trên trận tuyến hai bên bờ Bến Hải.
Ðến năm 1965, hệ thống loa phóng thanh cả hai bờ Nam - Bắc không còn hoạt động nữa. Cuộc chiến bằng loa phóng thanh buộc phải nhường chỗ cho cuộc chiến đấu quyết liệt bằng bom đạn.
Năm tháng đã đi qua, chiến tranh đã lùi về quá vãng, vết thương chia cắt đất nước giờ đã liền sẹo và đi cùng với nó là sự xóa nhòa những dấu tích oanh liệt một thời. Dẫu vậy, thời gian tuy có nghiệt ngã đến mấy thì cũng không thể nào xóa được tiềm thức về một quá khứ hào hùng của nhân dân ta ở hai bờ Bến Hải. Cụm di tích Ðôi bờ Hiền Lương là một bằng chứng sống động nhắc nhở chúng ta và hậu thế mai sau về một thời chia cắt, một thời bi hùng đã qua.
Với ý nghĩa lịch sử và giá trị nổi trội của di tích, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải đã được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ VHTT & DL) chọn đầu tư từ năm 2002 đến năm 2008. Nhiều hạng mục quan trọng của đôi bờ đã được phục dựng, tôn tạo như : Chiếc Cầu sắt lịch sử 1952 ; Cồng Chào bờ Bắc ; Đồn Công An giới tuyến ; Nhà Hiệp thương ; Kỳ đài bờ Bắc ; Nhà Trưng bày Vĩ tuyến 17 ; Tháp Canh bờ Nam ; Cụm tượng đài Khát vọng thống nhất ; cùng nhiều hạng mục hạ tầng, cây xanh cảnh quan di tích khác.
Hiền Lương - Bến Hải đã trở thành một địa chỉ, một điểm đến không thể thiếu trong các tour du lịch của tỉnh, khu vực và cả nước, như các tour: “Thăm lại chiến trường xưa và đồng đội”; tour du lịch vùng phi quân sự DMZ, tour du lịch “Hành lang kinh tế Đông Tây”...
Từ khi khu di tích đưa vào khai thác, sử dụng, hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4 tỉnh Quảng Trị tổ chức “Ngày hội thống nhất non sông”. Lễ hội được tổ chức cấp Quốc gia vào năm tròn nhân kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/04/1975) thu hút hàng chục ngàn người tham gia, với nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn, càng làm sống động cho khu di tích, làm sống lại những giá trị truyền thống lịch sử, văn hoá của một vùng đất, khẳng định những giá trị lịch sử mà dân tộc Việt Nam đã khắc ghi trong trang sử đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ hình chữ S này.
Bài; Ảnh: Nguyễn Văn Dương

http://dulich.quangtri.gov.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét